Con người thường ảo tưởng.
Nassim Nicholas Tabled giải thích về cái được gọi là “Thiên
Nga Đen”. Thiên Nga Đen là một biến cố xảy ra dù được kỳ vọng với xác nhỏ,
nhưng hậu quả rất lớn. Sau khi diễn ra, người ta có thể dựng ra hàng trăm lý do
để biện hộ nó. Điều này diễn ra ở cấp độ từ nhà đầu tư cá nhân nhỏ lên, cho đến
các nhà đầu tư lớn hoặc chuyên gia thị
trường. Không có dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư có kinh nghiệm hoặc chuyên
gia không bị ảo tưởng.
Ở góc độ doanh nghiệp, thường thì các nhà đầu tư có một cách
nhìn khác lạc quan hơn so với thực tế. Lấy ví dụ về chuyện khởi nghiệp kinh
doanh ở Mỹ. Chỉ có xác suất 35% các doanh nghiệp nhỏ mới khởi nghiệp còn tồn tại
sau 5 năm hoạt động. Nhưng phần lớn các doanh nhân đều cho rằng, thống kê này
không đúng với họ. Các
cuộc khảo sát đối với những người khởi nghiệp kinh doanh ở Mỹ
cho rằng, 60% người tin rằng, họ sẽ làm tốt hơn số đông. Và có đến 80% người
tin rằng, doanh nghiệp của họ có nét độc đáo riêng để đánh bại đối thủ.
Đối với các nhà đầu tư cổ phiếu cũng tương tự. TTCK là nơi
mà có đến 95% nhà đầu tư thất bại và chỉ 5% nhà đầu tư chiến thắng, nhưng phần
lớn các nhà đầu tư được hỏi hoặc mới tham gia vào thị trường, họ sẽ thuộc về
nhóm 5% thành công.
Nhưng kết quả trên thị trường nói chung theo xu hướng tồi tệ.
Theo một nghiên cứu của Terry Odearn, đại học Berkeley Carlifornia, trên 10,000
tài khoản của các nhà đầu tư cá nhân trong 7 năm. Có tổng cộng 163,000 giao dịch.
Ông nhận thấy một kết quả tồi tệ đáng kinh ngạc. Những cổ phiếu mà nhà đầu tư
bán đi thường có khuynh hướng tăng giá tốt hơn so với thứ họ mua vào, trung
bình khoảng 3.2%/năm trong nghiên cứu của ông. Điều này là do các nhà đầu tư
thường có khuynh hướng chốt lãi các cổ phiếu đang tăng giá và chậm cắt lỗ các cổ
phiếu giảm giá.
Terry Odearn cũng nhận thấy, các nhà đầu tư giao dịch càng
nhiều thì càng lỗ.
Sự ảo tưởng liên quan tới giới tính. Thường
thì đàn ông mắc bệnh ảo tưởng nhiều hơn phụ nữ. Phụ nữ là những người thực tế
hơn. Nhiều nghiên cứu cho thấy, phụ nữ có khả năng đầu tư tốt hơn đàn ông chỉ
vì họ thực tế hơn nhiều.
Có một thực tế mà
Kahneman, gọi là “Ảo tưởng của chuyên gia”. Nếu bạn xem các chương trình
bình luận của các chuyên gia trên thị trường, phần lớn thời gian được dùng để
“bình luận quá khứ”, là cái đã xảy ra. Họ rất giỏi đưa ra các lý lẽ để giải
thích cho một biến cố bất ngờ vừa diên ra trên thị trường. Kahneman gọi đó là
“Nhận Thức Muộn”. Đó là chúng ta thường nghĩ rằng, khi hiểu rõ quá khứ thì có
thể tự tin dự đoán được tương lai.
Sự thực thì các chuyên gia đã làm việc dự báo tương lai trở
nên có vẻ dễ dàng hơn. Trong khi đó, các nhà tâm lý học lại rất chú ý quan sát
điều này. Nhiều nghiên cứu và khảo sát về tài năng của các chuyên gia cho thấy
một thực tế đáng chú ý: “Họ chẳng giỏi hơn những kẻ nghiệp dư là bao”. Có hàng
trăm thí nghiệm kiểu này.
Chẳng hạn như Philip Tetlock, nhà tâm lý học tại Đại học
Pennsylavania. Ông thu thập hơn 80,000 dự báo của chuyên gia về hàng trăm câu hỏi
từ kinh tế, xã hội cho đến TTCK trong suốt 20 năm. Ông nhận thấy, tỷ lệ dự báo
thành công của các chuyên gia còn tệ hơn việc chia đều các kịch bản.
Trong một nghiên cứu riêng của Kahneman về 25 vị cố vấn tài
chính cao cấp trong 8 năm. Ông nhận thấy, không có sự khác biệt nào giữa các
tài năng giữa các chuyên gia về khả năng dự báo. Lúc thì người này đúng, người
kia sai và thời điểm khác thì ngược lại. Về cơ bản, không có một chuyên gia nào
trở nên nổi trội so với đồn nghiệp.
Hoặc các giáo sư ở đại học Duke đã tiến hành một khảo sát với
các CFO của các tập đoàn lớn về việc ước tính lợi nhuận của chỉ số SP500 cho
năm kế tiếp. Có 11,600 dự báo được thu thập và kết luận cho thấy: Phần lớn các
dự báo là vô cùng tệ hại. Điều này cho thấy, các chuyên gia tài chính cũng
không giỏi trong việc dự báo.
Điều đáng nói rằng, các chuyên gia có một căn bệnh chung: “tự
tin”. Trong thí nghiệp của đại học Duke, bất chấp kết quả dự báo tệ hại, có đến
67% các chuyên gia cho rằng dự báo của họ có độ tin cậy cao. Textlock nhận xét:
chuyên gia luôn cho rằng họ có khả năng đúng hơn so với các đồng nghiệp, những
người sống xa ánh đèn sân khấu. Những chuyên gia thường hay tâng bốc các kết quả
dự báo đúng (và hiếm khi đúng) trong khi lờ đi các dự báo sai.Textlock phát hiện
các chuyên gia thường né tránh thừa nhận sai lầm và khi bị ép buộc phải thừa nhận
chúng, họ có “một bộ sưu tập khổng lồ các lời biện hộ”
Bệnh chung của các chuyên gia là thường lạc quan thái quá.
Đó là lý do tại sao các chuyên gia thường khuyến nghị mua hơn là bán. Tỷ lệ
mua/bán được khuyến nghị ở Mỹ là 52%/3% và ở Đức là 39%/20%. Ở Việt Nam, chúng
ta thấy rằng, phần lớn các chuyên gia đều có khuynh hướng thích khuyến nghị mua
hơn là bán.
Tài năng hay may mắn
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ảo tưởng là do con
người thường có xu hướng tin vào tài năng bản thân và hạ thấp yếu tố của sự may
mắn hoặc ngẫu nhiên của lịch sử.
Những nhà tài
chính hành vi có khuynh hướng tin vào thuyết tiến hóa. Sự thực Darwin cho rằng,
chọn lọc của tự nhiên mang tính ngẫu nhiên. Đôi khi một sự đột biến
ngẫu nhiên nào đó về gen có thể tạo ra cả loài mới. Người anh em họ với Darwin là Francis Galton vào thế kỷ 19
cũng đã có phát hiện chấn động về hiện tượng
“Hồi quy về mức trung bình trong di truyền vốc dáng”. Theo đó, con cái không có
xu hướng gióng với cha mẹ về tầm vóc di truyền, mà hướng về mức trung bình của
bố mẹ. Nghĩa là con cái sẽ có vóc dáng nhỏ nếu như cha mẹ là những người cao lớn.
Ngược lại, con cái cao lớn nếu cha mẹ là những người có vóc dáng bé nhỏ.
Điều này khác hẳn với niềm tin phổ biến: Bố mẹ cao thì con
cái cao và ngược lại. Đây cũng có thể được coi là một tự nghiệm.
Thông điệp này thường được thổi phồng và sự may mắn thường bị
phớt lờ. Những nhà tài chính hành vi cho rằng, thành công có sự đóng góp rất lớn
của sự may mắn.
Câu chuyện về hai sinh viên xuất xắc của Khoa học máy tính Đại
học Stanford thực sự rất thú vị. Hai người đã đầu tư vốn khởi nghiệp về một
doanh nghiệp tìm kiếm trên mạng internet. 1 năm sau, hai sinh viên này quyết định
bán lại doanh nghiệp cho một công ty khác với giá 1 tỷ USD. Tuy nhiên thương vụ
thất bại vì đối tác cho rằng….giá như vậy là quá cao. Và hai sinh viên này may
mắn đã giữ lại được doanh nghiệp mà họ có ý định bán đi. Sau này, cả hai đều rất
vui mừng với may mắn này vì doanh nghiệp họ tạo ra chính là gã khồng lồ..GOOGLE. Tài năng tất nhiên là điều
không thể phủ nhận nhưng may mắn đóng vai trò cực lớn trong thành công của họ.
Trong đầu tư cũng vậy, về cơ bản khó ai có thể duy trì tỷ lệ
dự báo chính xác hoặc các khoản đầu tư lãi một cách liên tục. Nói chung, tỷ lệ
chính xác không phải là thứ yếu trong đầu tư. Tôi thường trích dẫn trường hợp của
nhóm Turtle, họ được huấn luyện để đối phó với những biến cố bất ổn và cách quản
trị tiền, rủi ro hơn là đi tìm yếu tố chính xác. Về cơ bản, nếu bạn thống kê lại,
thành tích dự báo của bạn cũng chẳng khá hơn là bao.
Tại sao chúng ta thường bán đi các chứng khoán lãi và giữ
các chứng khoán lỗ
Trong một chương trình khảo sát góp ý kiến cho một dự án chống
lại bệnh Ebola đang diễn biến phức tạp ở Châu Phi và có 600 người đang mắc bệnh.
Các nhà khoa học đã có 2 phương thuốc A và B với thông tin như sau.
Trường hợp 1: phương thuốc A cứu được 200 người và phương thức
B có khả năng 1/3 cứu được 600 người và 2/3 là không ai được cứu.
Kết quả 72% sẽ chọn (phương thuốc A).
Trường hợp 2): phương thuốc A chắc chắn 400 người sẽ chết và
phương thức B có khả năng 1/3 cứu được
600 người và 2/3 là không ai được cứu.
Kết quả 78% người chọn Phương thuốc B
Thuyết triển vọng, con người thích tìm kiếm rủi ro khi đối
diện với thua lỗ nhưng thích an toàn khi đứng trước lợi nhuận chắc chắn. Điều
này là do tâm lý sợ thua lỗ. Chúng ta luôn cảm thấy mất mát có một cái gì đó rất
đáng sợ. Thua 100 USD có cảm giác tồi tệ hơn nhiều so với cảm giác thắng 100
USD, mặc dù cả hai đều có giá trị tuyệt
đối như nhau. Đây là một sản phẩm của sự tiến hóa, não người thường có xúc cảm
với đạo đức: như thiện và ác, xấu và tốt. Theo nghiên cứu của Kahneman, thậm
chí tỷ lệ e sợ rủi ro còn ở mức 1.5 đến 2.5 lần. nghĩa là nếu bạn thua 100 USD
sẽ có cảm giác sợ hãi tương đương với cảm xúc lời 150 USD hoặc 250 USD. Chính
vì tâm lý sợ thua lỗ, nên khi bị dồn
vào đường cùng sinh tử hoặc đối diện với khoản lỗ lớn, con người chấp nhận những
phương án rủi ro. Họ chấp nhận một khả năng dù rất nhỏ không phải chịu thua lỗ.
Trái lại, khi có một khoản lãi hoặc vấn đề sống còn, họ muốn sự an toàn.
Chính tâm lý này lý giải tại sao các nhà đầu tư thường có
khuynh hướng bán các chứng khoán lãi và giữ các chứng khoán lỗ. Theo quan sát của
Kahneman, khi các nhà đầu tư cần rút ra một khoản tiền, các nhà đầu tư thường
có khuynh hướng bán ra các chứng khoán đang có lãi hơn là bán đi các chứng
khoán lỗ.
Bên cạnh tâm lý sợ thua lỗ là còn do con người thường hay bị
neo vào một điểm nào đó khi đưa ra quyết định. Thuật ngữ gọi là “Hiệu ứng mốc neo”. Thực ra con người
không phải thỏa mãn với mức tài sản hiện tại mà còn tham chiếu đến lịch sử tài
sản của họ. Sự thoả mãn của con người là theo sự thay đổi trong tài sản chứ
không phải là mức tài sản.
Trong quyết định của các nhà đầu tư, cảm giác lãi và lỗ được
sinh ra là do con người thường hay neo vào giá mua vào trước đó. Một nhà đầu tư
lý trí sẽ hiểu rằng, giá mua vào là một chi phí chìm và không còn ảnh hưởng đến
quyết định mua bán trong tương lai. Chúng ta cần tập trung vào việc đánh giá
triển vọng tương lai của mỗi cổ phiếu để đưa ra quyết định mua bán chứ không phải
là do cổ phiếu này đang lời hay đang lỗ.
Thậm chí, một nhà đầu tư lý trí còn có thể ưu tiên bán các
khoản lỗ vì mục tiêu né tránh thuế. Hiệu ứng tháng giêng là một ví dụ. Các nhà
đầu tư thường có khuynh hướng bán cổ phiếu lỗ vào tháng 12 ở Mỹ để khỏi phải nộp thuế và mua lại giá cao hơn vào
tháng 1 năm sau.
Các nhà đầu tư chuyên nghiệp là các nhà đầu tư biết loại bỏ cảm giác sợ bị thua lỗ. Đối với họ việc thua lỗ không quá trầm trọng. Họ coi thua lỗ như một phần của kinh doanh và không có gì phải sợ. Một lời khuyên dành cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ, việc thường xuyên theo dõi bảng điện hoặc kiểm tra tài khoản thực sự mang lại hiệu ứng tồi tệ. Vì chúng ta thường xuyên phải đối diện với nổi đau thua lỗ và rất khó để thoát khỏi tâm lý sợ thua lỗ. Nên ít xem bảng điện lại.
Bối cảnh tạo ra góc nhìn
Chẳng han như họ đang bị thua lỗ 5 lần liên tiếp, mỗi lần 10
USD. Tổng cộng thua lỗ 50 USD. Họ muốn làm một phi vụ lớn để gỡ lại toàn bộ 50
USD đã mất nên đặt cược với tỷ trọng lớn trong lần đầu tư tiếp theo. Tức là nhà
đầu tư đã gia tăng rủi ro vì các khoản thua lỗ trước đó (gọi là hiệu ứng hòa vốn).
Nhưng cũng có trường hợp các khoản lỗ liên tiếp khiến cho
trader trở nên “nhát” hơn so với thường lệ (gọi là hiệu ứng snake-bit effect).
Họ đặt mua ít ở các lần đầu tư tiếp theo vì cho rằng mình đang không may.
Điều tương tự cũng diễn ra khi các nhà đầu tư tích hợp các
khoản lãi trước đó và ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Khi họ nhìn thấy danh mục
tăng trưởng nhanh và mạnh, một tâm lý lạc quan có thể diễn ra và họ quyết định
đầu tư lớn hơn nữa. Nhưng cũng có thể họ sẽ đầu tư ít hơn so với bình thường vì
cho rằng vận may không kéo dài.
Chúng ta thấy điều này rất thường diễn ra trên sòng bạc hoặc
các trò chơi cá độ. Các nhà nghiên cứu nhận thấy, các con bạc thường gia tăng tỷ
lệ đặt cược vào cuối phiên nhằm gỡ gạc lại số tiền đã mất trong ngày. Hoặc sau
khi thắng cược ở một số lần chơi đầu, họ có khuyn hướng tăng tỷ lệ đặt cược.
Tại sao người càng nghèo càng thích mua vé số và chúng ta
thường thích mua cổ phiếu của những công ty mạo hiểm như DVD, hay VSP?
Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao bạn lại thích mua vé số? Xác
suất để trúng độc đắc vé số là rất thấp. Nhưng phần thưởng của nó mang lại là rất
lớn. Đây chính là sự hấp dẫn của vé số. Theo lý thuyết triển vọng, thì con người
thích tìm kiếm sự an toàn trong vùng lời và tìm kiếm rủi ro trong vùng lỗ. Tuy
nhiên, thuyết triển vọng cũng chỉ ra rằng, khi xác suất rất nhỏ để có một phần
thưởng lớn, con người cũng thích tìm kiếm rủi ro. Đó chính là trường hợp mà chúng ta thường hay mua vé số.
Hoặc đôi khi có một xác suất rất nhỏ để đối diện với một khoản thua lỗ lớn,
chúng ta thường thích sự an toàn. Đó chính là trường hợp mà chúng ta mua sự bảo
hiểm.
Người càng nghèo thì càng thích mua vé số,
vì hy vọng giàu nhanh chóng. Do đó dù xác suất thắng gần như bằng 0, họ cũng chấp
nhận mạo hiểm.
Tâm lý này cũng đúng
trong đầu tư. Khi các cổ phiếu này rơi vào diện cảnh báo hay kiểm soát đặc biệt
như DVD hay VSP, nhà đầu tư cũng có thể dám liều để chơi với nó. Chẳng hạn
như REE vào năm 2009. Xác suất để có một các cổ phiếu này thoát lỗ và có lãi sẽ
trở nên vô cùng thấp. Nhưng nếu điều này diễn ra nó sẽ tạo ra phần thưởng rất lớn.
Như nhiều nhà đầu tư từng nói, cổ phiếu
của công ty nhiều năm có lãi chưa chắc đã có suất sinh lợi như công ty ở trạng thái lỗ chuyển sang lãi. Kỳ vọng sẽ
rất lớn và giá thường tăng rất mạnh.
Do đó, tương tự như mua vé số. Một số nhà đầu tư sẵn sàng bỏ
ra một số tiền nhỏ tương tự như mua vé số để tham gia vào trò chơi liều lĩnh
này. Gần đây, tôi thấy một người em sẵn sàng bỏ ra một chút xíu tiền để mua
JVC, một cổ phiếu đang bị đồn đoàn là có thông tin công ty đóng cửa hoạt động.
Sẵn sàng bỏ ra một số tiền nhỏ để tham gia vào các hoạt động
rủi ro cao là điều thường gặp với các nhà đầu tư. Cũng giống như chuyện chúng
ta thường hay mua vé số. Người càng nghèo càng thích mua vé số. Nhà đầu tư với
quy mô tài sản càng bé, càng thích những trò chơi kiểu này.
Bạn chỉ thấy những gì bạn muốn thấy
Thực tế nhà đầu tư thường ít đa dạng hóa (gọi là tự nghiệm
đa dạng hóa). Các nhà đầu tư thường có tâm lý đầu tư vào các cổ phiếu họ biết
hoặc đã đầu tư trước đó hơn là tìm kiếm các cổ phiếu mới. Con người rất e ngại
sự mơ hồ, họ thích các công ty họ nắm rõ hoặc họ biết. Con người cũng e ngại
khi phải tìm kiếm các thông tin mới. Do đó, các nhà đầu tư thường thích đầu tư
vào các công ty nội địa hơn là quốc tế. Thậm chí, các nhà quản lý quỹ có khuynh hướng đầu tư vào các
công ty có trụ sỡ gần với trụ sở của các nhà quản lý quỹ.
Tâm lý bầy đàn của các chuyên gia
Có một lý giải cho việc các nhà phân tích thường bị ảnh hưởng
bởi doanh nghiệp. Để thu thập các thông tin đánh
giá, các nhà phân tích phải liên hệ với doanh nghiệp. Do đó, nếu như có những
đánh giá quá xấu đến doanh nghiệp
sẽ khó duy trì mối quan hệ với doanh nghiệp về sau. Có nghĩa là các nhà phân tích
có thể bị doanh nghiệp từ chối cung cấp thông tin và nói nước đôi.
Ở Việt Nam vào năm
2006, 2007 có trường hợp tranh cãi giữa công
ty ITA và HSC liên quan tới đánh giá phân tích. Thực tế, là có rất ít
trường hợp các nhà phân tích tỏ ra “cứng cựa” trước doanh nghiệp để bảo vệ lập
trường của mình. Phần đông có khuynh hướng hùa theo doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Tư duy nhanh và chậm”, Daniel
Kahneman, 2011.
2. “Tài
chính hành vi”, Lucy F.Ackert và Richard Deaves, 2013 (bản dịch tiếng Việt)
3. “Sự Tuyệt
Chủng của con người Kinh tế”, Michael Shermer, 2008
4. “Lẽ phải
của Phi Lý Trí”, Dan Ariely, 2010.
5. “Mô Thức
Mới của Thị Trường Tài Chính”, George Soros.
6. “Thiên
Nga Đen”, Nassim Nicholas Taleb
No comments:
Post a Comment